1.Virus Marburg là gì?
Virus Marburg (Marburg Virus Disease – MVD) là một virus RNA thuộc họ Filovirus, cùng họ với virus Ebola, đây là loại virus lây truyền từ động vật sang người, gây sốt xuất huyết và xuất huyết nghiêm trọng ở nhiều bộ phận trong cơ thể.
Vật chủ ban đầu chứa virus Marburg là dơi ăn quả châu Phi, có tên gọi Rousettus aegyptiacus. Dơi ăn quả bị nhiễm virus Marburg không có dấu hiệu bệnh rõ ràng, khó nhận biết. Nhưng các loài linh trưởng (bao gồm cả con người) mắc bệnh có thể phát triển triệu chứng nghiêm trọng, tỷ lệ tử vong cao tương tự với Ebola.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), virus Marburg lần đầu tiên được ghi nhận vào năm 1967, khi dịch sốt xuất huyết bùng phát đồng thời tại các phòng thí nghiệm ở Marburg và Frankfurt (Đức) cũng như ở Belgrade, Nam Tư (nay là Serbia). 31 người bệnh đầu tiên là nhân viên phòng thí nghiệm, sau đó một số lây nhiễm cho các nhân viên y tế khác và thành viên trong gia đình. Họ tiếp xúc với khỉ xanh châu Phi nhập khẩu từ Ugandan hoặc mô của chúng trong khi tiến hành nghiên cứu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sau đó ghi nhận 7 trường hợp tử vong.
2. Các triệu chứng nhận biết bệnh do Virus Marburg gây ra
Virus Marburg lây lan qua đường lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp (qua da hoặc niêm mạc bị rách) với máu, dịch tiết, cơ quan hoặc các chất dịch cơ thể khác của người bị nhiễm bệnh và với các bề mặt, vật liệu (Ví dụ: giường, quần áo) bị nhiễm các chất dịch này. Ngay cả sau khi người bệnh đã hồi phục, máu hoặc tinh dịch của họ vẫn có thể lây nhiễm trong nhiều tháng sau đó.
Trong giai đoạn đầu của bệnh, chẩn đoán lâm sàng MVD rất khó phân biệt với nhiều bệnh sốt nhiệt đới khác do các triệu chứng lâm sàng giống nhau. Các bệnh sốt xuất huyết do virus khác cần được loại trừ, bao gồm bệnh do virus Ebola, cũng như bệnh sốt rét, sốt thương hàn, bệnh leptospirosis, nhiễm trùng do rickettsia và bệnh dịch hạch. Phòng thí nghiệm có thể xác nhận bằng các xét nghiệm khác nhau, chẳng hạn như xét nghiệm miễn dịch hấp thụ liên kết với enzyme bắt kháng thể (ELISA), xét nghiệm phát hiện bắt giữ kháng nguyên, xét nghiệm trung hòa huyết thanh, xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR), kính hiển vi điện tử và virus phân lập bằng nuôi cấy tế bào.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thời gian ủ bệnh Marburg là từ 2 ngày đến 3 tuần. Các triệu chứng bắt đầu đột ngột với sốt dữ dội và đau đầu. Vài ngày sau khi khởi phát, nhiều bệnh nhân bị nôn mửa, tiêu chảy và đau bụng kéo dài tới một tuần. Các trường hợp nặng có kèm theo chảy máu trong tuần đầu tiên. Một số bệnh nhân nôn ra máu hoặc đi ngoài ra máu.
Bệnh nhân cũng bị chảy máu nướu răng, ở mũi và cơ quan sinh dục. Bệnh có thể lan đến hệ thần kinh khiến người bệnh trở nên lú lẫn, dễ cáu gắt và hung dữ. Ngoại hình của bệnh nhân ở giai đoạn này được mô tả là có các đặc điểm được vẽ “Suy mòn, suy kiệt nặng“, đôi mắt sâu hoắm, khuôn mặt vô cảm và cực kỳ thờ ơ. Hầu hết các trường hợp tử vong sau hơn một tuần mắc bệnh, ngoài ra, WHO cho biết thêm rằng các trường hợp tử vong thường đi kèm với sốc và mất máu nghiêm trọng.
Trong đợt bùng phát ở châu Âu năm 1967, phát ban không ngứa là một đặc điểm được ghi nhận ở hầu hết bệnh nhân từ 2 đến 7 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng. Nhiều bệnh nhân xuất hiện các biểu hiện xuất huyết nghiêm trọng trong khoảng thời gian từ 5 đến 7 ngày, và các trường hợp tử vong thường có một dạng chảy máu nào đó.
3. Các đường lây truyền virut Marburg
Virus Marburg có đường lây truyền đa dạng, theo các chuyên gia y tế vi rút Marburg lây truyền sang người từ dơi ăn quả châu Phi thông qua nhiều cơ chế khác nhau, cụ thể:
- Tiếp xúc lâu dài với phân hay chất tiết của dơi Rousettus trong hầm mỏ. Một khi người bị nhiễm virus nếu tiếp xúc trực tiếp (da trầy xước hay niêm mạc) với máu, chất tiết, tạng hay tiếp xúc gián tiếp dịch cơ thể ngay cả trên bề mặt hay dụng cụ (quần áo, drap giường) bị lây nhiễm dịch tiết, hay tiếp xúc với thực phẩm nhiễm virus.
- Virus Marburg cũng có thể lây truyền qua đường tình dục (quan hệ tình dục bằng miệng, âm đạo hoặc hậu môn) thông qua việc tiếp xúc với tinh dịch của người đã khỏi bệnh.
- Ngoài ra, virus Marburg cũng được truyền cho thai nhi qua nhau thai. Ở phụ nữ mang thai, virus Marburg có thể tồn tại trong nhau thai và nước ối. Đối với phụ nữ đang cho con bú, nếu bị nhiễm Marburg, virus có thể tồn tại trong sữa mẹ.
Đối tượng dễ mắc virus Marburg là người tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân, đặc biệt là các thành viên trong gia đình chăm sóc họ tại nhà hoặc nhân viên bệnh viện.
4. Các phòng ngừa và điều trị bệnh do Virus Marburg lây nhiễm
Theo WHO, hiện chưa có vaccine hoặc phương pháp điều trị bằng thuốc kháng virus nào được phê duyệt để điều trị bệnh do virus Marburg.
Do vậy cần thực hiện tốt các biện pháp sau để phòng bệnh:
– Giảm nguy cơ lây truyền từ dơi sang người
– Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người trong cộng đồng: Cách ly người nhiễm bệnh; vệ sinh môi trường xung quanh; nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nhiễm Virus Marburg, tuyệt đối chấp hành quy định về chăm sóc bệnh nhân truyền nhiễm nguy hiểm.
- Các biện pháp ngăn chặn bùng phát bao gồm chôn cất người chết nhanh chóng, an toàn, xác định những người có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm Marburg và theo dõi sức khỏe của họ trong 21 ngày. Thực hiện cách ly người khỏe mạnh với người bệnh để ngăn ngừa lây lan thêm và chăm sóc cho người đã xác nhận bệnh nhân. Đồng thời, cần duy trì vệ sinh môi trường sạch sẽ và đảm bảo được tuân thủ.
- Giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục: Dựa trên phân tích sâu hơn về nghiên cứu đang diễn ra, WHO khuyến nghị nam giới sống sót sau bệnh do vi rút Marburg thực hành tình dục và vệ sinh an toàn hơn trong 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với vi rút Marburg. Nên tránh tiếp xúc với chất dịch cơ thể và nên rửa bằng xà phòng và nước. WHO không khuyến nghị cách ly bệnh nhân nam hoặc nữ đang hồi phục có xét nghiệm máu âm tính với Virus Marburg.
Nguồn tin: VNVC và nhiều nguồn khác